Sơn son thếp vàng là một nghề truyền thống có từ lâu đời của người Việt, phổ biến hơn ở miền Bắc nước ta. Kĩ thuật này thường được sử dụng để điểm tô các chi tiết trong chế tác đồ thờ cúng, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ làm từ gỗ như tủ, bàn, tráp, hoành phi,… Sơn son thếp vàng là một kĩ thuật khó và phức tạp, đồng thời giúp tăng giá trị của sản phẩm về cả thẩm mỹ, tinh thần và vật chất.
Sơn son thếp vàng tức sơn son và thếp vàng, là hai công đoạn riêng biệt của kĩ thuật này. Sơn son dùng sơn làm từ nhựa cây sơn ta và công đoạn làm ra loại sơn này cũng cầu kì không kém. Phu lấy nhựa phải bắt đầu từ sớm trước khi mặt trời mọc bằng cách cứa vào vỏ cây cho chảy nhựa. Nhựa cây màu trắng đục. Hứng xong thì đổ vào thúng rồi phủ giấy dầu cho kín để nhựa lắng thành nhiều lớp nước sơn. Nếu không kín, sơn bị dưỡng hóa sẽ chuyển màu đen và khô lại. Lớp sơn trên cùng gọi là sơn thượng hay sơn mặt dầu, có nhiều chất dầu nhất nên nhẹ, nổi thành váng ở trên. Thứ đến là sơn nhất, sơn nhì, và sơn ba. Nhựa sơn thượng này sau đem đánh đều với nhựa thông theo một tỷ lệ nhất định thì sẽ đổi từ màu đục thành trong và keo lại. Nếu dùng chậu sành thì thành phẩm là sơn cánh gián màu nâu ánh đỏ. Nếu dùng chậu sắt thì sẽ thành sơn then màu huyền vì phản ứng với acid tannic. Sơn cánh gián và sơn then có thể dùng làm nước sơn phủ ngoài các hàng và mỹ nghệ như tượng thờ, hoành phi, khay, tráp và tranh sơn mài. Những lớp sơn nhất, nhì, ba thì chỉ dùng làm sơn bó, dùng làm keo dính hay trét kín các vật dụng gia dụng như thuyền thúng. Quy trình sơn son có ba bước: gắn sơn, sơn lót và sơn phủ. Dù thếp vàng làm nổi bật cái nét riêng biệt của món đồ nhưng khâu sơn son lại đặc biệt quan trọng và phúc tạp hơn nhiều so với khâu thếp vàng. Chính vì vậy, người thợ cần có tay nghề cao, kinh nghiệm và thật cẩn thận.
Thếp vàng là việc trang trí dán lớp vàng lá, vàng quỳ được dát thật mỏng lên về mặt các vật dụng bằng gỗ, đá, đồng,... để tạo màu vàng tự nhiên, có ánh kim bắt mắt và sang trọng. Thếp vàng gồm ba công đoạn: hom, cầm và thếp. Hom là kĩ thuậtdùng bột đá trộn sơn ta giã nhuyễn cùng giấy bản rồi hom, chít các vết rạn nứt của tấm gỗ. Mỗi lớp sơn lại lót một lớp giấy hoặc vải màn sau đó còn phải đục mộng mang cá để cài và gắn sơn cho các nẹp gỗ ngang ở sau tấm vóc để chống vết rạn xé dọc tấm vải. Sau đó để gỗ khô kiệt, người nghệ nhân mài nhẵn bề mặt và sơn phủ lót ba lớp. Trước khi mang đi thếp vàng, sản phẩm còn được phết một lớp sơn cầm để khóa. Sau khi hoàn thành hom và cầm cầu kỳ phức tạp, bước cuối cùng là thếp vàng lên bức tượng. Vật dụng để dát vàng lên pho tượng là lá quỳ (loại lá đặc biệt được làm từ giấy dó, quét lên một loại mực làm từ nhựa thông, mùn cưa, hồ và keo da trâu). Lá vàng sau khi đập dập, gỡ và cắt nhỏ được xếp xen kẽ vào giữa lá quỳ. Nhiệm vụ của người thợ là phải cầm lá quỳ sao cho lá vàng dính vào giấy, sau đó dán lên sản phẩm nhưng không được dí tay. Cuối cùng, nghệ nhân dậm vàng một cách tỉ mỉ để sản phẩm không bị rạn và mất đi độ bóng.
Sơn son thếp vàng là một kĩ thuật cầu kì, vậy nên các sản phẩm được sơn son thếp vàng đều rất quý giá. Kĩ thuật này thường được dùng để chế tác đồ thờ tam sự, tượng phật, hoành phi câu đối. Thời Nguyễn, đồ dùng của vua chúa và các nhà quyền quý đều được thếp vàng, kể cả bàn ghế, sập, tủ. Làng nghề sơn son thếp vàng nổi tiếng chuyên làm đồ cho triều đình à làng Tiên Nộn. Làng Kiêu Kỵ, Gia Lâm và làng Sơn Đồng, Hoài Đức là hai làng nghề nổi tiếng về đồ sơn son thếp vàng.
Ngày nay cùng với sự phát triển của công nghệ, sơn son thếp vàng có thể được chế tác theo kiểu công nghiệp bằng cách dùng sơn công nghiệp và kĩ thuật mạ vàng bằng hóa học hoặc bằng điện. Nhìn bề ngoài có thể không có nhiều sự khác biệt, tuy nhiên kĩ thuật sơn mài thủ công vẫn đâu đó cất chứa sự công phu, tỉ mỉ cũng như trân trong của người thợ đối với sản phẩm của mình, cũng chính là giá trị của một tác phẩm sơn son thếp vàng.
Nét sơn son thếp vàng quý không chỉ ở chất liệu hay độ công phu khi thực hiện sản phẩm. Sự trân quý của sản phẩm nằm ở giá trị tinh thần mà nó chứa đựng. Sơn son thếp vàng chứa đựng tinh thần của văn hóa lúa nước bởi sắc nâu trầm và ánh kim, thể hiện cho mong muốn và khát vọng về cuộc sống ấm êm, no đủ mà vẫn rất gần gũi, gắn bó mật thiết.