Trước khi suy tàn và chìm vào quên lãng, gốm Chu Đậu từng cực thịnh vào khoảng thế kỉ XV-XVI. Sang đến thế kỉ XVII do cuộc tranh giành quyền lực của hai thế lực Trịnh - Mạc mà dẫn đến suy tàn. Sau đó, hầu như không ai nhắc đến nghề gốm Chu Đậu nay cả trên chính quê hương của nó, bởi lẽ cái nghề truyền thống ở mảnh đất này là làm chiếu, có đôi khi người ta vẫn đào được những mảnh gốm vỡ hay di chỉ lò nung ở đây nhưng họ không mấy để tâm đến những mảnh vỡ không có giá trị.
|
Gốm Chu Đậu từng được ưa chuộng trên khắp thế giới do vẻ đẹp kì ảo: “mỏng như giấy, trong như ngọc, trắng như ngà, kêu như chuông”, nét đẹp mà nhiều dòng gốm sứ thời điểm đó không thể có được. Hơn nữa từ dáng vẻ, chất men, họa tiết, hoa văn trang trí... đều mang đậm bản sắc Việt và đạt đến trình độ nghệ thuật cao. Người Việt có câu “sứ Giang Tây, gốm Chu Đậu” để chứng tỏ vị thế của gốm Việt. Kế thừa sự mềm mại của gốm sứ thời Lý và nét mạnh mẽ của gốm sứ nhà Trần, gốm Chu Đậu đặc trưng với lối vẽ men lam trên nền gốm trắng. Các bình gốm Chu Đậu được thiết kế rất đa dạng về kiểu dáng, kích thước phù hợp để trang trí trong các không gian. Đặc biệt men gốm Chu Đậu làm từ tro vỏ trấu lúa nếp cái hoa vàng. Đây là dòng men tro trấu thiên nhiên đã được xác lập “kỷ lục độc bản” Việt Nam và được cả thế giới ngợi ca về độ bền cũng như giá trị nghệ thuật đỉnh cao.
|